Lm. Trần Xuân TâmI.
Tinh thần kiên nghị của các Giám mục Việt Nam đối với nhà nước cộng sản có thể được định nghĩa là nghị lực hay sức mạnh tinh thần của các ngài đứng trước những bách hại, cấm đoán, hạn chế của nhà nước mà vẫn không chịu khuất phục, nhưng cố bảo vệ hay đòi cho được những gì thuộc về Giáo Hội. Tuy nhiên trong bài nhận định này tôi không nói về tinh thần kiên nghị của các Gm cho bằng những biểu hiện của tinh thần đó. Chúng ta không thể thấy chính khả năng hay phẩm tính tinh thần đó vì nó vô hình, nhưng chúng ta thấy được những biểu hiện hữu hình bên ngoài của nó.
Tôi cũng không nói về những biểu hiện cá nhân của tinh thần kiên nghị ở nơi cá nhân Gm này hay Gm nọ cho bằng về những biểu hiện chung của đa số các Gm, nghĩa là những biểu hiện mang tính tập thể cách nào đó. Nhưng bài nhận định của tôi không dám và không có quyền phán đoán về trách nhiệm luân lý tập thể của các Gm vì hai lẽ sau. Thứ nhất tôi chủ yếu dừng lại ở những biểu hiện khách quan bên ngoài. Nếu như có qua những biểu hiện đó mà tôi có đưa ra nhận xét nào về chính tinh thần kiên nghị ví dụ như cho rằng nó có ít hay nhiều ở nơi các Gm, còn nông hay đủ sâu, còn yếu hay đủ mạnh, thì những nhận xét đó không có ý quy trách nhiệm luân lý cho các ngài. Thứ hai là chúng ta không được quên rằng trong hoàn cảnh vẫn còn ở dưới ách độc tài toàn trị cộng sản thì các Gm VN bị tước mất phần lớn điều kiện để có thể thi hành bổn phận tập thể của mình một cách tự do và đầy đủ nhất là khi họp thường niên. Cho nên khi nói biểu hiện "chung" ở nơi các Gm VN, tôi muốn lưu ý là tính cách chung ở đây rất tương đối. "Chung" nhưng chính xác chung tới mức độ nào thường khó có thể biết được. Nói rõ hơn, nếu từ ban Thường vụ hay từ một kỳ họp thường niên của Hội đồng Giám mục có những việc đã làm dù không nên làm hay có những việc đáng làm mà vẫn chưa được làm thì cả hai trường hợp chưa chắc đã thực sự phản ảnh đầy đủ sự đồng thuận tự do của đa số các Gm thành viên đâu.
Thiết tưởng cũng nên nhắc lại đến cái thời trước lúc bắt đầu có sự "mở cửa", nghĩa là trước những năm cuối thập niên 80. Lúc đó Giáo Hội Công Giáo VN bị nhà nước độc tài toàn trị cs vẫn còn ở thời kỳ vững mạnh cấm đoán và kiểm soát trong hầu hết mọi hoạt động và sẵn sàn đàn áp ít nhiều kiểu Staline đối với mọi phản đối của người CG. Trong tình trạng bị đàn áp như thế một trong những biểu hiện chung của tinh thần kiên nghị đối với nhà nước ở nơi các Gm đó là những tâm tình cảm nghĩ mà các ngài có đối với những tiếng nói phản đối nhà nước bảo vệ GH như của Cha Nguyễn Văn Vinh ở Hà Nội ở miền Bắc trước 1975[1], cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền[2], Cha Nguyễn Văn Lý[3], Cha Chân Tín, và giáo sư Nguyễn Ngọc Lan ở miền Nam sau 1975[4]. Đó cũng là tâm tình và cảm nghĩ chung của mọi thành phần CG trong nước. Hễ ở đâu trong nước những tiếng nói can đảm đó được người CG biết đến thì ở đó họ không những ngưỡng mộ, kính phục các tác giả, mà còn xem đó là những tiếng nói thay cho cả tập thể người CG trong nước, nói lên những gì mà người CG uất ức muốn nói nhưng không nói được. Tập thể người CG tự hào về những tiếng nói đó, xem đó là sự bảo vệ danh dự của GH.[5]
Tuy nhiên dù ngưỡng mộ, kính phục, tự hào đối với những tiếng nói đó, đại đa số Gm VN đã không làm như vậy. Dễ hiểu trong những hoàn cảnh lúc đó những tiếng nói như thế trong mắt nhà nước độc tài toàn trị là những thách đố công khai, trực tiếp xúc phạm, khiêu khích đến quyền lực của nó[6]. Nhất là đối với GHCG ở miền Bắc với gần hai phần ba giáo dân và với phần lớn giáo sĩ di cư vào Nam, rồi phải sống dưới nhà nước cộng sản vào giai đoạn chuyên chính tột độ của nó, thì việc lên tiếng công khai phản đối nhà nước và bảo vệ GH rõ ràng là tự sát, tự đưa mình đến cái chết vì đạo. Các Gm và Lm miền Bắc phải chọn một phương thức khác. Với sự ủng hộ can trường và trung kiên của giáo dân các vị đã kháng cự cách âm thầm, bảo vệ đoàn chiên bằng cách đóng kín và hạn chế tối đa việc tham gia vào đời sống xã hội, hết sức bảo toàn cơ cấu và lực lượng, ngấm ngầm nhưng kiên trì chống lại mọi khả năng thâm nhập của nhà nước nhắm phá hoại GH từ bên trong, nhất là trong nội bộ giáo sĩ. Đây cũng là một biểu hiện khác của tinh thần kiên nghị. Biểu hiện này tuy không lên tiếng công khai nhưng cũng đã là một phản ứng với nhiều nỗ lực anh hùng lắm rồi, và trong mắt Thiên Chúa chắc Ngài cũng không đòi hỏi gì hơn thế.
[1] Ví dụ: Vào năm 1955 ngài như viết và phổ biến thư phản đối việc nhà nước đòi quốc hữu hóa trường Dũng Lạc và việc nhà nước hạ tượng Thánh Giá ở lớp học xuống đem đi và thay vào đó là ảnh ông HCM. Vào lễ Giáng Sinh năm 1959 thì ngài lại phản đối việc treo cờ đỏ sao vàng trong nhà thờ (Bùi Đức Sinh, O.P. Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam 1975-2000. Westminster, California: Asian Printing, 2001: tr. 445-446).
[2] Ví dụ: Trong hai bài phát biểu này 19 và 22.4.1977 tại trụ sở MTTQ Bình Trị Thiên ngài đã công khai phê phán sự đàn áp tự do tôn giáo của nhà nước, không những khẳng định GHCG không có tự do tôn giáo chút nào mà còn bênh vực cho những phản kháng của anh chị em Phật giáo Thống nhất cho đó là chỉ là vì họ bị nhà nước tước đoạt tự do tôn giáo. Không những thế ngài còn cho phổ biến hai bài phát biểu. Rồi sau đó ngài còn cách chức chính tổng đại diện của mình vì vị này đã tự tiện đi Hà Nội họp Đại hội UBĐK, cũng như "treo chén" một linh mục khác vì tham gia MTTQ. Ngày 19 tháng 10 năm 1983 Đc gửi thư cho Lm Nguyễn Thế Vịnh, chủ tịch UB Liên lạc CGYN nói lên lập trường hiệp thông với Tòa thánh Rôma và cảnh giác mọi người về âm mưu của nhà nước muốn thành lập GH ly khai tự trị.
[3] Ví dụ: Vào năm 1977 ngài đứng ra phổ biến hai bài phát biểu của Đc Điền. Ngày 15/8/1981 ngài cho đọc kinh công khai giữa đường để phản đối việc công an ngăn cản không cho giáo dân của ngài và các nữ tu đi hành hương La Vang. Từ cuối năm 1982 đến giữa năm 1983 ngài công khai phản đối việc nhà nước cs cấm đoán ngài thi hành một số phận vụ linh mục ở giáo xứ Đốc Sơ, cũng như việc đòi trục xuất ngài ra khỏi đó.
[4] Ví dụ: Cha Chân Tín và gs Lan vào năm 1988 đã công khai phản đối việc nhà nước ngăn cản việc phong thánh bằng cách phát biểu hay viết bài rồi phổ biến. Năm sau Cha Chân Tín công khai giảng 3 bài giảng về xám hối trong nhà thờ Kỳ Đồng, phê phán và đòi hỏi nhà nước phải tôn trọng tự do tôn giáo.
[5] Cái thời mà VN chỉ có cơ quan nhà nước và đảng viên cao cấp mới có điện thoại, cái thời mà việc đi lại ngay cả trong một tỉnh cũng gặp nhiều khó khăn vì sự kiểm soát và khai báo tạm trú tạm vắng, cái thời mà rất ít người ngay ở miền Nam có máy đánh chữ và nếu có cũng thường dấu để tránh công an nghi ngờ, chụp mũ, thế nhưng người CG vẫn có cách rỉ tai cho nhau về những tiếng nói đó và thậm chí chép tay chuyền cho nhau nội dung của chúng. Thái độ của người CG trong nước đối với những tiếng nói của Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan trong vụ phong Thánh là điển hình rõ nhất.
[6] Để minh hoạ rằng khi quyền lực chuyên chính của nhà nước cs còn quá mạnh, việc lên tiếng công khai phản đối nhà nước, bảo vệ GH không phải là điều mà các Gm VN muốn làm, thiết tưởng không có ví dụ nào rõ ràng cho bằng vụ Phong thánh. Để chống đối và ngăn cản việc "Phong Thánh", nhà nước đã áp lực các Gm phải mở cuộc họp bất thường này 2.3.1988 với ý đồ muốn các vị "chủ động" yêu cầu Tòa thánh bỏ hay ít là hoãn lại việc phong thánh. Trong lúc mà lòng tự trọng và niềm tự hào của người CG bị xúc phạm nhất, các vị vẫn kìm hãm lòng mình tránh phản đối công khai và chỉ phát biểu với đại diện nhà nước rằng: "việc của Tòa thánh, thì Tòa thánh làm, nên không còn gì để chủ động" (Bùi Đức Sinh. Sđd: tr. 60). Các Gm phát biểu như thế cũng là một cách các ngài phản đối nhà nước dù chỉ có vẻ là biện minh tại sao các ngài không làm theo yêu cầu của nhà nước. Nhà nước thừa hiểu như thế nên sau đó khi trả lời TTXVN ông Nguyễn Quang Huy, trưởng ban tôn giáo, mới chỉ trích công khai HĐGM, và đó là lần đầu tiên nhà nước làm vậy. Ông Huy nói: "Cho đến nay, các vị có trách nhiệm trong HĐGM vẫn chưa thể hiện thái độ thực sự liên quan tới lợi ích của đất nước và những băn khoăn chính đáng của giáo dân, còn vịn vào điều này điều khác để tránh trách nhiệm trực tiếp giải quyết vấn đề. Thậm chi khi giải thích cho giáo sĩ và giáo dân trong nước về nội dung bản thông cáo của Hội nghị bất thường HĐGMVN, có những vị đã không nói lên quan điểm rõ ràng đứng đắn và thái độ hợp lý hợp tình của nhà nước ta. Phải chăng làm như thế các vị muốn đổ lỗi cho nhà nước ta là gây khó khăn cho việc phong thánh?" ( Báo Tin Nhà 3: tr.1).
Một ví du khác: ngay cả một Gm như Đc Nguyễn Minh Nhật khi Đại hội UBĐKCG họp tại Hà Nội từ 10-12/10/90 cũng chỉ nhắc khéo hay đúng hơn "chửi khéo" đại hội bằng cách gửi điện văn chúc ĐH "phản ánh rõ nét lòng trung thành hiệp thông với GH" (BĐS: tr. 67) (dầu hai tháng sau khi qua Pháp thì Đc đã đích danh vạch trần thực chất của uỷ ban này khi trả lời phỏng vấn báo Les Églises d'Asie 12/12).
(Xin xem tiếp trong Nguyệt San Diễn Đàn Giáo Dân số 32 tháng 6/2004 trang 34)