NĂM THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ (June/29/ 2008- June 29/2009)
CUỘC TRANH LUẬN
* Gương Thánh
Phaolô và hiện tình Hội Thánh Việt Nam
Trong Năm Thánh PHAOLÔ Tông Đồ,
ĐGH Biển Đức đã khuyến khích chúng ta, cần học hỏi về
Giáo Thuyết, cũng như Đời Sống Tâm Linh
của Thánh Tông Đồ, vì Ngài cùng với Thánh Phêrô, Vị Giáo Tông Tiên Khởi, là
hai
CỘT TRỤ
xây dựng Hội Thánh của Chúa Cứu Thế. Điều đặc biệt, ĐGH Biển Đức muốn
nhấn mạnh là: Thánh Phao Lô Tông Đồ Dân
Ngọai, vẫn còn rất “hợp thời” cho thời đại chúng ta, về các vấn đề làm sao
đem TIN MỪNG của Chúa Cứu Thế,
Hội Nhập và Thích nghi vào
các cơ cấu xã hội của các dân tộc.
Do đó, ta thử tìm hiểu phương pháp mà Thánh Nhân đã đối phó với những khó khăn gặp phải trên bước đường Truyền Bá Phúc Âm, để giúp ta biết cách giải quyết những mâu thuẫn, tranh luận, trong tình trạng xáo trộn, hoang mang, bất an, chia rẽ của Dân tộc và Giáo hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo độc quyền chuyên chế của Đảng CSVN.
Giầu kinh nghiệm lịch sử về chống ngọai xâm Bắc phương, và chống Cs từ năm 1945,
đồng thời là Tín Hữu theo Chúa Cứu Thế, người Công Giáo Việt Nam chúng ta cần
tìm hiểu trong Sách Thánh, những Lời Giảng Dậy của Chúa, và Gương Sáng của các
Thánh Tông Đồ và của các ĐGH, nhất là
ĐGH Gioan Paulô II, và Đức Đương Kim Giáo
Hòang Biển Đức XVI, về vấn đề:
Có thể thỏa hiệp với TỘI ÁC được không? Bằng một giới hạn nào, có thể hợp tác
với chế độ vô thần, độc tài, đàn áp tôn giáo, đàn áp Tự do Nhân quyền? Trước khi
trả lời cho những câu hỏi nêu trên, để giúp ta giải quyết một cách thỏa đáng,
thiết tưởng nên tìm hiểu về:
1/ Cuộc Tranh Luận giữa Thánh Phêrô và Thánh Phaolô và cách giải quyết về vấn đề
sinh tử của Hội Thánh thời sơ khai: “TỰ DO của NGƯỜI CON
CHÚA”. Các Tín hữu theo Chúa Cứu Thế được TỰ DO theo Giáo Huấn của Chúa,
và các Thánh Tông Đồ, hay vẫn còn bị ràng buộc vào Luật Maisen của Do thái giáo?
2/ Ứng dụng cách thức giải quyết của Hai Vị “TÔNG ĐỒ ”, vào hiện tình Đạo Công
Giáo, dưới chế độ Vô Thần, Độc đảng, độc quyền chính trị, kinh tế của CsVN.
(Tài Liệu Kinh Thánh cần đọc: Tông
Đồ Công Vụ(C.V), Đọan XV; Rom.II,
25-29; Gal:II, 1-11; VI,11-16: Phil.III,1-19)
Theo tài liệu ghi chép trong (Công Vụ IX, 19, và Gal I, 17-21), sau biến cố làm
đảo lộn đời sống tâm linh, Thánh
Phaolô đã rút lui vào miền rừng núi Ảrập, sống ẩn dật, cầu nguyện và suy niệm.
Sau gần 3 năm, Thánh nhân mới trở lại Jerusalem xin diện kiến với Vị Tông đồ Cả
là Thánh Phêrô, và ở lại chừng 15 ngày để đàm đạo, thảo luận về Giáo thuyết mới
của Phúc Âm với các Tông đồ, để thống nhất tư tưởng. Nhờ cuộc “Tĩnh Huấn” trong
3 năm này, Thánh PhaoLô được kết hiệp mật thiết với Thầy Chí Thánh, và trực tiếp
học hỏi nơi Thầy linh ứng, đặc biệt về Giáo thuyết:”Hội
Thánh là Nhiệm Thể Chúa KYTÔ”
Từ giã Jerusalem, PhaoLô trở về thăm quê hương, gia đình ở thành Tarsô. Sau đó,
Ngài cùng với một bạn đồng liêu là Barnaba, đến truyền giáo tại Thành
Antiochia
(thuộc
Syria)
1.Lý Do và Đề Tài cuộc Tranh Luận.
Trong thời kì sơ khai, các vị Tông đồ phải chiến đấu với những người Do thái thù
nghịch với Đạo mới của Chúa Kitô, mà ngay trong những tín hữu theo Chúa Kitô
cũng chia làm hai phái:
một phái THỦ CỰU, tin theo
Chúa Kitô, nhưng vẫn còn muốn giữ những tập tục của Mai Sen, đặc biệt là một tục
lệ, đã trở thành nghi lễ, gọi là:”phép
cắt bì” (circumcision, tức là cắt da
đầu qui đầu (foreskin, prépuce) của cơ quan sinh dục phái nam).Đây là tập
tục rất cổ miền Trung đông từ thời Tổ phụ Abraham, và các miền phụ cận.
Một phái khác, gồm những Tín Hữu Tân Tòng, trước kia không theo Do Thái
giáo, gọi là ”Dân Ngọai” (Gentiles),
gồm nhiều chủng tộc, ngôn ngữ khác nhau như: Hilạp, Roma, Tiểu Á, ẢRập..
-Lập trường của nhóm Thủ cựu: Các tín hữu tân tòng- đã không chịu phép Cắt bì theo tập tục Do thái, thì khi gia nhập Đạo Mới của Chúa KiTô, dầu đã chịu Phép Rửa Tội, nhưng còn phải tuân giữ luật Đạo cũ nữa, tức là phải chịu phép ”cắt bì”.
-Quan
Điểm của Thánh Phaolô Tông Đồ: Theo chủ trương của Thánh Phaolô, và
Thánh Barnaba đã cùng nhau rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngọai tai thành Antiochia,
rất thành công vì nhiều người tin theo Chúa Cứu thế, thì
chỉ lãnh nhận Phép RỬA TỘI mà thôi, không cần chịu phép cắt bì nữa. Bởi
vì, sau khi Chúa Cứu Thế, Con Thiên Chúa, đã hòan tất việc Chuộc tội cho nhân
lọai, chỉ cần TIN vào Chúa Cứu Thế để được cứu rỗi, không còn cần đến phép cắt
bì hay lề luật của Maisen nữa! Tại sao còn bắt các Tín Hữu Tân Tòng phải lệ
thuộc vào Luât lệ cũ, vì họ đã được giải thóat để sống trong
TỰ DO của NGƯỜI CON CHÚA!
2.Mở Công Nghị tại JÊRUSALEM để giải quyết.
Như trên đã trình bày, phái Thủ cựu vẫn theo dõi các họat động Truyền Giáo của Thánh PhaoLô và Barnaba tại Antiochia, và tố cáo các Ngài là chống lại luật của Maisen, vì theo họ các tân tòng phải tuân theo một trật cả Tân Ước và Cựu Ước.
Phía bảo vệ chân lý nền tảng về “Ơn Cứu
Chuộc của Chúa Giêsu”, gồm có Thánh Phaolô, Thánh Barnaba, anh Titô, một
người trẻ, khôn ngoan, thông minh, xuất xứ từ Antiochia, dù không chịu phép cắt
bì, nhưng cũng đã lãnh nhận nhiều On Chúa Thánh Thần ban cho. Anh được Thánh
Phaolô cử đi phó hội như một đại diện cho “Dân Ngọai”.
Ngòai hai phe đối lập, còn các vị lãnh đạo trong Cộng đòan như Thánh Phêrô Tông đồ Trưởng vừa bị vua Claudiô trục xuất khỏi Rôma, cũng có mặt tại Jerusalem, và Thánh Giacôbê Hậu, Giám Mục thành Jerusalem, rầt được giáo dân kính trọng mộ mên. Và một nhân vật hiền lành, nhu mì, thầm lặng là Thánh Gioan.
Qua bài diễn văn quan trọng của Thánh Phêrô, Tông Đồ Cả (coi C.V.XV, 7-11), và
lập trường của Thánh Giacôbê, Giám Mục Jerusalem, (Coi; C.V.XV, 13-21), chúng ta
có thể tóm lược vào hai điểm chính:
a/ Ơn Cứu Chuộc và Phần Rỗi linh hồn hòan tòan do Chúa Cứu Thế ban cho,
qua Phép Rửa Tội: Nhân Danh Cha, và Con và Thánh Thần”.
b/
Muốn được TỰ DO làm CON CHÚA, chỉ
cần Tin, Cậy, Mến Chúa Giêsu, và tuân giữ các giới răn của Chúa dạy, mà không
cần lệ thuộc vào lễ giáo Maisen, hay phép cắt bì. Thánh Phao lô đã giải thích rõ
ràng trong Thư gửi Giáo hữu thành Galatia (Gal II, 15- IV, 1-31)
3. Khi Thánh Phêrô còn do dự…
Công Dồng Jerusalem đã tuyên bố nghị quyết của các Thánh Tông Đồ về Quyền TỰ DO của các Tân Tòng Dân Ngọai. Nhưng phe thủ cựu, gồm những tín hữu gốc Do Thái giáo vẫn còn chưa dứt khóat lập trường. Họ vẫn dò la, theo dõi Thánh Phêrô, Tông Đồ Trưởng, quan sát xem Ngài cư xử thế nào đối với các Tân Tòng Dân Ngọai.
Khi đến thăm giáo đòan tại Antiochia, Thánh Phêrô
đã đổi thái độ đối với các Tân Tòng,
vì sợ mất lòng các Tín hữu thủ cựu.
Ngài tỏ vẻ xa lành các Tân Tòng, không muốn cùng ăn uống chung với họ. Do đó,
những Tân Tòng cảm thấy bị hất hủi, cô lập.
Thánh Phaolô cũng nhận thấy tình trạng gây chia rẽ này, và lập trường chưa dứt
khóat, còn do dự, thiên vị phe thủ cựu của Thánh Phêrô, Tông Đồ Trưởng. Tệ hơn
nữa, người bạn thân là Thánh Barnaba cũng theo cách cư xử của Thánh Phêrô đối
với các Tân Tòng.
Do tình trạng căng thẳng đó, Thánh Phaolô cương quyết bảo vệ quyết định chung
của CÔNG NGHỊ Jerusalem của các Tông Đồ, nên Ngài đã phản đối công khai, và
thành tâm trình bày cho Thánh Phêrô nhận thây sự sai lầm, “tiền hậu bất nhất”,
“lý thuyết một đàng, thực hành một nẻo”, gây chia rẽ, phân tán nhân tâm, và
hoang mang trong cộng đồng Dân Chúa. (xin đọc: GAL II,11-14). Nhờ lập trường dứt
khóat, và lòng thành tín của Thánh Phaolô đã thuyết phục được Thánh Phêrô và
Thánh Barnaba nhận lỗi, và chấp nhận, thi hành quyết nghị của Công Nghị
Jerusalem. Nhờ đức Khiêm Nhượng, Phục Thiện của Thánh Phêrô và nhờ sự
Cương Quyết bảo vệ Chân Lý của Thánh Phaolô, mà Hội Thánh thời Sơ Khai
tránh được mối chia rẽ, và sau này, các Tin Hữu theo Chúa Cứu Thế được hưởng
TỰ DO của Người CON CHÚA.
Lịch Sử Hội Thánh đã ghi nhận việc sửa sai này, để nêu gương sáng cho hậu thế,
chẳng những không làm sứt mẻ Tình Bằng Hữu của Người Môn Đệ Chúa, mà vì cùng
chung một Lý Tưởng Phúa Âm, cùng ‘đồng lao cộng khổ” với Thầy Chí Thánh, cùng
chịu Tử Đạo để làm Chứng Nhân cho Chúa, nên hai Vị Tông Đồ thật là
HAI CỘT TRỤ LỚN luôn kề bên nhau để
chống đỡ Hội Thánh trong mọi cơn thử thách.
Trong bài nhận định này, ngườI viết thấy không cần nhắc lại những phản kháng,
bất mãn, và dư luận báo chí, Truyền Thanh, TV, Internet, Video… đã bàn tán sôi
nổi trong hai tháng nay, vì mọi người đều đã biết căn nguyện, hệ quả và danh
tính, phẩm trật của người đã gây ra nông nỗi. Sau một thời gian, làn sóng công
phẫn, tuy chưa lắng dịu, nhưng cũng đủ tạm êm, để những người thiện chí nhận
định: PHẢI/TRÁI,
THIỆN/ÁC, THẬT/HƯ, và các HỆ LỤY,
ÁC QUẢ để sửa sai cấp thời và rút kinh nghiệm cho tương lai.
Thiết tưởng
điểm cốt lõi đã gây nên sự bất
bình và tranh luận sôi nổi hiện nay, có thể dàn thành hai lập trường đối lập,
hai mặt trận giữa hai chiến tuyến, vì
tính chất quyết liệt, một mất một còn,
giữa Cs độc tài và TỰ DO NHÂN BẢN.
Một bên là:
đảng Cs, độc tài, độc quyền về Chính trị, Kinh Tế, Tôn giáo, Giáo dục..,
biểu tượng là:
CỜ MÁU (mầu ĐỎ của chém giết, tiêu diệt đối thủ)
Bên kia là:
Tự Do Tôn Giáo, Tự Do Dân Chủ, Nhân Quyền, Nhân Phẩm..biểu trưng bằng:
LÁ CỜ VÀNG (“hòang”,
mầu vàng của ruộng đất Dân Tộc
Việt)
Câu Hỏi đặt ra: Hai bên có thế chung
sống: HIỆP THÔNG, Hòa giải, Hòa hiệp, Hiệp nhất…được không?
Điều quan trọng là phải định nghĩa từ ”Hiệp
Thông”, Hiệp Nhất, theo nghĩa nào? Thực ra, mọi người dân Việt đã rút kinh
nghiệm Lịch Sử về:”sống
chung hòa bình” với CsVN, trong gần một thế kỉ nay. Chiêu bài”Hiệp
Thông” của Cs và tay sai đưa ra, không
phải là
mục Tiêu của hai phía đối lập,
còn muốn tương nhượng nhau, DUNG HÒA
quyền lợi của mỗi bên, nhưng đó chỉ là “Chiến
thuật giai đọan”, một phương tiện cần dùng khi Cs yếu, phải ”hõan
binh chi kế”, để tìm dịp khác, giống như con cọp “vần
đi vần lại con mồi cho nó kiệt sức”, để “THUẦN
HÓA” nó, rồi sẽ ăn sống
nuốt tươi nó, một cách ngon lành!
1- Trên Bình Diện Giáo Lý: KHÔNG HIỆP THÔNG ĐƯỢC!
-Trên bình diện Giáo Thuyết cũng như Lý Trí, Luận Lý (logic)
ta không thể dung hòa hai thái cực được.
Theo Giáo Lý Thiên Chúa Giáo: Chỉ có
MỘT ĐỨC CHÚA TRỜI, là Chúa Tể vũ trụ
càn khôn, là Đấng Tạo Hóa dựng nên muộn vật muông lòai. Chúa là Nguyên Thủy và
là Cứu Cánh của cuộc đời.
Ngược hẳn lại:
Cs Vô thần, chối bỏ Thiên Chúa, và ngạo mạn tự coi mình làm chủ lấy mình.
Các lãnh tụ Cs đều tự coi mình là”chúa tể”, và coi ”Tôn giáo là thuốc phiện”.
- Theo Chúa Cứu Thế, trong Phúc Âm,
Chúa đã phán quyết rõ ràng: Không được
làm tôi hai chúa; không được phụng thờ
Thiên Chúa và Mammom (thế tục, vật
chất, của cải) ngang nhau (Luca 16: 13) vì nếu phụng sự chúa này, thì phải bỏ
chúa kia. Chúa Cứu Thế cũng đã phán dạy về
cách lựa chọn dứt khóat, dầu sinh ra chia rẽ, phân ly:”Có
phải anh em nghĩ rằng: Ta đến để đem sự bình an cho thế gian? Không . Ta bảo anh
em: Ta đem sự chia rẽ đến…..” (Luca, Đọan XII, 51-53). Chúng ta phải hiểu ý
nghĩa xác thực của Lời Chúa như sau: dĩ nhiên, Chúa luôn dạy chúng ta, mọi người
phải yêu thương nhau, nhưng trong trường hợp
cần phải lựa chọn dứt khóat giữa Chúa và Thế gian, Thiện và Ác, thì người
môn đệ thực tâm theo Chúa, không được có thái độ”thỏa
hiệp”, “trung lập”, lừng khừng”…nhưng phải tỏ thái độ rõ rệt, một là
theo CHÚA, hay là BỎ CHÚA., mặc dầu gây đau khổ cho chính bản thân, chia
ly trong gia đình, bất hòa với cha mẹ, anh chị em, như trường hợp các
Thánh Tử Vì Đạo, hay các tu sĩ hiến thân phục vụ Chúa và Hội Thánh. Thánh
Phêrô đã khẳng khái trả lời các Kỳ Mục Do Thái cấm rao truyền Tin Mừng của Chúa
Cứu Thế: “Xin các ông xét lại:
trước mặt Thiên Chúa, vâng lời các ông, hay vâng lời Thiên Chúa, đằng nào chính
đáng hơn? (Công Vụ, IV, 18-19)
-MỆNH LỆNH của ĐỨC MẸ FATIMA vẩn CÒN đó.
Nước Nga và chư hầu Đông Âu đã trở lại với Chúa, đang tiến bộ về mọi mặt, nhất
là được hưởng TỰ DO. Số phận Dân Việt còn bị thử thách một thời gian nữa, nhưng
làm sao chúng ta đã mất lòng tin tưởng vào lời hứa của Mẹ Maria, sẽ cứu chúng ta
thóat gông cùm của Vô thần, độc tài.
-Các Thông Điệp “Divini Redemptoris”, 1937 của ĐGH PIÔ XI, đặc biệt gương sáng
của ĐGH Gioan PhaoLô II,
ĐGH Biển Đưc XVI
(coi
hai Thông Điệp gần đây: Deus Caritas, và
Chúa Cứu Thế là nguồn HY VỌNG được Cứu Chuộc..) vẫn còn sáng chói. Ngòai ra,
còn Giáo luật và các Thư của Hội Đồng Giám Mục Đông Dương, năm 1950…đã long
trọng kết án tòan bộ Lý thuyết, và thực hành của chủ nghĩa vô thần, phi nhân Cs.
-Theo Thiên Chúa Giáo, các Giới Răn về LUÂN LÝ là
những Mệnh Lệnh có giá trị
tuyệt đối, vượt không-thời gian,
và phận biệt điều THIỆN phải làm, điều ÁC phải trành. Cách suy nghĩ của Cs thì
khác hẳn:
“mục đích biện minh cho phương tiện”,
nghĩa là đảng viên có thể được phép dùng bất cứ phương tiện nào (bất kể ăn gian,
nói dối, chém giết..) miễn là đạt được mục đích :củng cổ độc quyền của Cs. Mọi
Luật Luân Lý chỉ có giá trị
“tương đối”, thay đổi luôn, tùy người, tùy hòan cảnh.
-Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh Công Giáo,
phân biệt “Đạo, Đời”, nghĩa là, tuy
không hòan tòan tách biệt, nhưng các Tôn Giáo có quyền Độc Lập, Tự trị về sinh
họat tôn giáo; còn Chính phủ chuyên lo về mặt Kinh tế, tài chính, nước giầu dân
mạnh; Chính Quyền không được can thiệp
vào việc huấn luyện, tuyển chọn các tu sĩ. Về vấn đề này, mọi người đều biết,
Cs không tôn trọng
quyền độc lập của các Tôn Giáo,
luôn kiểm sóat, xen vô nội bộ để lũng đọan, lập các Giáo hội quốc doanh do Nhà
Nước Cs dàn dựng, điều khiển.
2-Hoàn cảnh đất nước hiện nay bị Cs CAI TRỊ
Nhìn vào hòan cảnh đất nước Việt Nam hiện nay,
chỉ có chừng 3 triệu người là thóat nạn Cs đàn áp, và tỵ nạn chính trị tại các
Quốc gia Tự Do, Dân Chủ, còn hơn 80 triệu bắt buộc phải sống trong chế độ độc
tài về Chính Tri và Kinh tế. Trong số đồng bào còn ở lại, chỉ một số rất ít
thuộc thành phần cán bộ, ước chừng một hai triệu đảng viên và thân thuộc, và một
số tay sai, xu thời kiếm lợi lộc, còn tuyệt đại đa số dân chúng đều chán ghét
chế độ độc đảng, độc tài, tham nhũng, nhưng không được cơ hội may mắn thóat khỏi
gông cùm Cs.
1-Trong thực tế của đời sống,
để có thể tồn tại, làm ăn nuôi sống gia đình,
dầu trong thâm tâm vẫn chán ghét Cs,
nhưng bên ngòai, phần đông dân chúng vẫn phải miễn cưỡng buộc lòng tuân theo
những luật pháp của chế độ. Chỉ có một số thành phần quả cảm, không sợ tù tội,
mới can đảm dám công khai phản đối như trường hợp:
L.M Nguyễn Văn Lý và Luật Sư Lê Thị Công
Nhân…. Do đó, thái độ đúng đắn, để đối phó với hòan cảnh sinh sống, dưới chế
độ độc tài Cs, theo kinh nghiệm của các Nước Đông Âu bị Cs Nga đô hộ là: “Hợp
tác mà luôn đề kháng” (coopérer en résistant), nghĩa là luôn đề phòng,
không bao giờ làm gì, nói gì có lợi giúp “củng
cố” cho đảng Cs thêm lớn mạnh và kéo dài việc thống trị trên đất nước Việt
Nam. Nếu có dịp thuận tiện, thì cung cấp tài liệu, tố cáo những tội ác, tham
nhũng cho thế giới Tự Do biết.
-Bởi vậy, cần đề phòng tuyên truyền của Cs và tay sai,
luôn tung ra những khẩu hiệu giả dối, lừa bịp như: “Hòa
giải ,hòa hợp dân tộc’, “Hiệp Thông”, “Liên hiệp”, “Hợp tác”, Đối thọai”, “khúc
ruột ngàn dặm” v.v. tòan là những danh từ phỉnh gạt, đối với những đồng
hương tỵ nạn Cs, tìm Tự Do ở hải ngọai, hay đối với đồng hương sống thầm lặng,
dưới chế độ bưng bít, đàn áp, độc tài đảng trị.
2-Đối với các Đồng hương Viêt nam tỵ nạn Cs trên khắp thế giới TỰ DO,
chúng ta và con cháu chúng ta, vì bổn phận đối với QUÊ HƯƠNG, nên cần phải tích
cực lên tiếng tố cáo những bất công xã hội, chính trị, kinh tế, giai cấp do đảng
Cs gây ra cho Đất Nước. Chúng ta không phải “sợ
hãi”, như các đồng hương thầm lặng bên quê nhà.
Nhưng điều quan trọng là phải đề phòng:
cần tự chế những lời nói, công việc viện
trợ, từ thiện, hợp tác kỹ thuật…có thể giúp củng cố chế độ độc tài đảng trị thêm
lâu dài. Điều này tùy thuộc vào sự phán đóan khôn ngoan của mỗi người, nếu
còn thiết tha với vận mệnh của Dân Tộc.
Để Tạm Kết Luận.
Câu :” CỜ VÀNG làm tắc nghẽn sự Hiệp
Thông”, trong “Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 08” tại Úc châu, là câu nói:
dư thừa, không cần thiết và lầm lẫn.
Vì biểu tượng của :CỜ VÀNG là TỰ DO, DÂN CHỦ, nên người Việt sinh sống trong các
Quốc Gia cùng Lý tưởng Tự Do, Dân Chủ, hay các thành phần đồng hương sinh sống
tại Việt Nam, nhưng trong thâm tâm vẫn yêu chuộng Tự Do Dân chủ,
một cách thầm lặng, thì
hai bên đã và vẫn mãi “Hiệp Thông” với nhau rồi, thì còn cần gì phải hô
hào “Hiệp Thông” nữa?
Làm gì có chuyện”Tắc nghẽn”nào!
Nếu có “tắc nghẽn”, là giữa độc tài Cs và người Việt yêu chuộng TỰ DO, DÂN CHỦ.
Nhưng đây là chuyện hiển nhiên, ai cũng biết. Chứng cớ hùng hồn nhất để phi bác
câu nói đó, chính là cử chỉ vừa ưu ái đối với Dân tộc Việt đau khổ, vừa xác định
lý tưởng TỰ DO của Người Con CHÚA,
khi chính
ĐGH Biển Đức XVI, tự tay chòang giải CỜ
VÀNG lên áo của Ngài.